Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Sài Gòn, số 19/2024 ngày 12/5/2024. Theo dõi phiên bản rút gọn trên Tạp chí Kinh tế Sài Gòn tại đây
Kiểm kê khí nhà kính dần trở thành việc phải làm đối với các doanh nghiệp để tuân thủ quy định và chuẩn bị cho một chiến lược tăng trưởng dài hạn. Tuy vậy, việc tính toán lượng các-bon đủ để cung cấp những hiểu biếtsâu (giúp doanh nghiệp có thể tiến hành các bước khử tiếp theo)vẫn thách thức cả về chi phí thực hiện và áp dụng nó.
Xu thế không thể đảo ngược
Kiểm kê Khí nhà kính (GHG) hay Kiểm kê Các-bon là quá trình đo lường và báo cáo dữ liệu về lượng phát thải, loại bỏ trực tiếp và gián tiếp các loại khí gốc các-bon như các-bon đi-ô-xit (CO2) và mê-tan (CH4) gây ra biến đổi khí hậu, sử dụng lượng CO2 tương đương (CO2e) làm đơn vị đo lường. Việc tính toán lượng các-bon giúp các tổ chức hiểu được tác động của khí hậu và đặt ra các mục tiêu giảm phát thải.
Với sự tập trung ngày càng tăng vào các tác động kinh tế và xã hội của biến đổi khí hậu, ngày càng có nhiều yêu cầu pháp lý chặt chẽ hơn về việc tính toán lượng phát thải các-bon và về việc giảm thải các-bon. Xu hướng này là không thể đảo ngược. Tới tháng 3-2024, chính phủ của các quốc gia đóng góp tới 92% GDP toàn cầu đã cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào một thời điểm nào đó trong tương lai. [1]
Liên minh châu Âu (EU), nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, gần đây đã ban hành một loạt các bộ luật luật yêu cầu công bố dữ liệu về lượng khí thải các-bon. Chỉ thị về Báo cáo Phát triển Bền vững của Doanh nghiệp yêu cầu các công ty có trụ sở tại EU bắt đầu công bố dấu chân khí nhà kính với các công ty lớn phải bắt đầu tuân thủ vào năm 2024 và các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào năm 2026. Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Các-bon (CBAM) buộc các sản phẩm phát thải nhiều các-bon nhập khẩu vào thị trường EU phải chịu thuế các-bon bắt đầu từ năm 2026 dựa trên lượng khí thải nhà kính được tạo ra trong quá trình sản xuất của họ.
Tại Mỹ, Đạo luật về Trách nhiệm Giải trình dữ liệu doanh nghiệp về Khí hậu của Bang California cũng yêu cầu bất kỳ công ty nào của Mỹ có doanh thu trên 1 tỉ đô la Mỹ, dù là niêm yết hay không, và “đang kinh doanh ở California” phải bắt đầu báo cáo về phát thải trên toàn chuỗi cung ứng vào năm 2026. Với định nghĩa của luật này về “kinh doanh ở California” có tiêu chí khá đơn giản, một số nguồn ước tính rằng hơn 5.000 công ty sẽ cần phải tuân thủ đạo luật này, và gây ra hiệu ứng đô-mi-nô với các công ty con và nhà cung cấp của họ trên toàn cầu.
Tại Việt Nam, Nghị định 06/2022/ND-CP và Quyết định số 01/2022/QD- TTg yêu cầu các đơn vị hoạt động trong sáu lĩnh vực phát thải nhiều (năng lượng, giao thông, xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất và chất thải) có lượng phát thải khí nhà kính hàng năm vượt quá 3.000 tCO2e phải nộp báo cáo kiểm kê hai năm một lần từ năm 2024 trở đi. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 2026, các đơn vị này phải bắt buộc thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính .
Chiến lược bắt buộc cho tăng trưởng
Mặc dù nhiều công ty bắt đầu tính toán lượng các-bon chỉ để tuân thủ các quy định quốc tế hoặc trong nước, nhưng một số doanh nghiệp đã nhìn thấy tiềm năng gia tăng lợi thế cạnh tranh từ các hành động về khí hậu và chủ động kết hợp việc tính toán lượng các-bon vào công việc quản lý hàng ngày của họ. Những lợi ích này bao gồm từ tiết kiệm chi phí, gia nhập những thị trường mới và nặng cao giá trị sản phẩm, cắt giảm chi phí vốn. Tất cả những lợi ích đó có những tác động tích cực tới giá trị doanh nghiệp.
Đầu tiên, việc tính toán lượng các-bon cung cấp những hiểu biết sâu sắc có giá trị về lượng khí thải của tổ chức và đẩy nhanh việc áp dụng các biện pháp tiết kiệm năng lượng, dẫn đến tiết kiệm chi phí và có lợi cho môi trường.
Thứ hai, việc thực hiện kiểm toán lượng các-bon và tiến hành giảm phát thải trong chuỗi cung ứng của họ giúp các doanh nghiệp tạo sự khác biệt, chiếm lĩnh thị trường và tiếp cận các thị trường có giá trị cao. Trong ngành thời trang, khoảng 30% khách hàng Gen Z ở Mỹ cho biết họ sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm thân thiện với môi trường. Trong nhiều kết quả nghiên cứu được thực hiện ở châu Âu đối với khá nhiều danh mục thời trang khác nhau, các sản phẩm phát thải thấp có thể được tăng giá cao hơn tới 15% so với các sản phẩm thông thường mà sức mua không hề giảm. Trong nhiều ngành hàng và phân khúc khách hàng, để bán được hàng thì phải “xanh”.
Cuối cùng, bằng cách chủ động giải quyết các vấn đề môi trường, các công ty có thể giảm chi phí cấpvốn và có được định giá doanh nghiệp cao hơn thông qua việc thu hút các nhóm nhà đầu tư quan tâm đến đầu tư có trách nhiệm với xã hội. Trên thị trường nợ quốc tế, trong vòng chưa đầy 10 năm kể từ khi trái phiếu xanh đầu tiên được phát hành ở châu Âu vào năm 2013, khối lượng phát hành trái phiếu xanh đã tăng vọt lên mức kỷ lục 600 tỷ đô la Mỹ vào năm 2023. Nguồn vốn này hỗ trợ các dự án từ văn phòng tiết kiệm năng lượng đến các sáng kiến năng lượng tái tạo. Trên thị trường chứng khoán, nhiều nhà đầu tư đang ngày càng khó tính hơn trong việc hỗ trợ các công ty có thành tích kém về ứng phó biến đổi khí hậu, thậm chítăng cường đầu tư vào đổi mới khí hậu và yêu cầu các CEO phải chịu trách nhiệm trực tiếp. “Tính bền vững của môi trường” đã tăng vọt hơn 300% so với một năm trước trong trong cuộc khảo sát năm 2022 của Gartner về “Các ưu tiên của CEO” trên toàn thế giới và hiện nằm trong top 10 các ưu tiên lớn nhất của các CEO toàn cầu. Những dòng vốn hướng tới tăng trưởng xanh và giảm thiểu tác động khí hậu sẽ mang lại lợi ích cho các công ty có thành tích giảm phát thải rõ ràng, cấp cho các doanh nghiệp này chi phí cấp vốn thấp hơn. Ở chiều ngược lại, những doanh nghiệp không có tác động tốt sẽ phải chịu chi phí vốn cao hơn.
Hạch toán phát thải khí nhà kính không dễ dàng
Bất chấp những lợi ích đã được hứa hẹn đó, việc tính toán lượng các-bon vẫn đặt ra một loạt thách thức liên quan đến chi phí thực hiện và áp dụng nó. Trên thực tế, chỉ dưới 10% tổ chức đo lường chính xác tổng lượng phát thải khí nhà kính (GHG), theo một thống kê của BCG công bố tháng 10-2021.
Từ quan điểm kỹ thuật, các phương pháp báo cáo và tính toán lượng các-bon vẫn có những khập khiễng nhất định, do sự phân loại không nhất quán từ các phương pháp thu thập dữ liệu thủ công mâu thuẫn nhau, đặc biệt là đối với lượng phát thải dọc theo chuỗi giá trị (phạm vi 3). Ví dụ, chất lượng dữ liệu đối với việc kiểm kê phát thải trong quá trình sử dụng sản phẩm ở phía hạ nguồn đã bị chỉ trích bởi nhiều nghiên cứu. Nhiều hoạt động gây phát thải bị bỏ sót khi kiểm kê, ranh giới báo cáo không đầy đủ hoặc áp dụng các giả định không nhất quán là những vấn đề hứng chịu chỉ trích lớn. Đảm bảo dữ liệu chính xác khi kiểm kê bằng phương pháp thủ công là vô cùng khó khăn khi dữ liệu phải được tổng hợp từ nhiều doanh nghiệp khác nhau.
Cùng với đó là nút thắt cổ chai được tạo ra do sự thiếu hụt các chuyên gia kiểm kê có trình độ, dẫn đến các phương pháp đôi khi không nhất quán và thường là chi phí cao hơn. Dịch vụ tính toán lượng các-bon của các tổ chức quốc tế có thể dễ dàng tiêu tốn hơn hàng chục nghìn đô la Mỹ đối với một công ty cỡ trung bình có doanh thu vài nghìn tỷ, mà những báo cáo này vẫn không cung cấp những hiểu biết đủ sâu để doanh nghiệp có thể tiến hành các bước khử các-bon tiếp theo. Ngoài ra, các dịch vụ như vậy không được xây dựng theo hướng linh hoạt: nếu bạn cần sửa lại kết quả tính toán lượng các-bon của mình cho mục đích khác, ví dụ để xuất khẩu sang một quốc gia khác, bạn có thể cần phải mua thêm gói dịch vụ mới chỉ vì các tiêu chuẩn khác nhau hoặc đôi khi chỉ vì hệ số phát thải khác nhau được chấp nhận.
Chuyển đổi số là một yếu tố tiên quyết để có thể vượt qua những trở ngại đó. Phần mềm quản lý phát thải các-bon giúp giảm tải công việc thu thập, tính toán, báo cáo và phân tích dữ liệu, cho phép các tổ chức quản lý lượng khí thải các-bon một cách hiệu quả, đảm bảo về mặt kỹ thuật, xác định cơ sở giảm thiểu và giảm chi phí tối đa. Giống như AI Tạo sinh đã loại bỏ nút thắt cổ chai tại các chuyên gia Photoshop trong công việc tạo ra hình ảnh, các phần mềm quản lý các-bon như Nuoa.io loại bỏ nút thắt cổ chai về sự thiếu hụt của các chuyên gia kiểm kê, cho phép các công ty bắt đáp ứng các phương pháp thực hiện hành động mới nhất mà không cần phải đào tạo và đào tạo lại cán bộ phát triển bền vững khi có những thay đổi về Phương pháp luận.
Tuy nhiên, một công cụ quản lý các-bon tốt cần kết hợp được kiến thức chuyên môn sâu về CNTT và kiến thức chuyên môn về kinh tế môi trường và khoa học môi trường. Ngoài ra, do các tiêu chuẩn và khung lý thuyết toàn cầu vẫn đang tiến hóa, các công ty nên tìm kiếm các nhà cung cấp có đủ nguồn lực và năng lực nghiên cứu để liên tục cập nhật những phát triển mới nhất.
Cuối cùng, các công cụ này sẽ hỗ trợ tích cực cho các nhân viên phụ trách hoạt động phát triển bền vững trong việc tiến hành giảm thiểu phát thải các-bon tại doanh nghiệp. Các công cụ này có thể cung cấp thông tin chi tiết về lập kế hoạch về các phương pháp giảm thải các-bon tiềm năng, một bước bắt buộc phải có sau khi kiểm kê. Với những công cụ như vậy, các cán bộ phát triển bền vững sẽ thoát khỏi các nhiệm vụ nghiên cứu và theo dõi thủ công và có thể tập trung hơn vào việc tương tác với các phòng ban liên quan và thúc đẩy những thay đổi trong hành vi.
Tác giả
Hiếu Đinh
Founder, CEO
Email: hieu.dinh@nuoa.ioÔng Hiếu Đinh là một lãnh đạo doanh nghiệp cấp cao có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, bao gồm tư vấn chính sách phát triển, đầu tư vào nền kinh tế tuần hoàn và các hoạt động thích ứng BĐKH. Ông nhận bằng MBA tại INSEAD, ngôi trường nổi tiếng về kinh doanh bền vững và đổi mới sáng tạo. Ông tốt nghiệp loại giỏi cử nhân Kinh tế & Tài chính tại Đại học RMIT với học bổng toàn phần.
Nguyễn Ngọc Lan
Co-Founder, Giám đốc Khoa học & Chính sách
Email: lan.nguyen@nuoa.ioBà Lan Nguyễn nghiên cứu luận án Tiến sĩ trong lĩnh vực Kinh tế học, Môi trường, Tiến hóa và Hệ sinh thái tại trường Đại học Dartmouth danh tiếng (Hoa Kỳ). Bà Lan thực hiện nghiên cứu chính sách tăng trưởng xanh, quản lý tài nguyên thiên nhiên, chính sách môi trường và sinh thái học.